TRUYỆN NGẮN : MÙA HOA CẢI


MÙA HOA CẢI

Trước nhà là cánh đồng cải trải dài đương mùa nở rộ, thỉnh thoảng những cơn gió thổi mạnh làm dợn lên những gợn sóng vàng tươi thướt tha. Xa xa là màu xanh mạnh mẽ của dãy bụi tre làng sum suê, đang thi nhau rì rào trước gió.

Trời dần về chiều, bầu trời xanh có chút gợn mây, chốc chốc lại xuất hiện vài cánh chim ngàn lẻ loi bay về tổ. Thỉnh thoảng lại có vài đám người lũ lượt kéo nhau về sớm, thường thì mùa này, viêc nhà nông không bận bịu là bao, chủ yếu gieo giống, chăm cây con, chứ chưa phải cấy hái gì nhiều, họ vừa đi vừa trò chuyện tíu tít, đôi lúc người trên người dưới lại í ới gọi nhau, vui đáo để. Mấy người ấy nhìn có vẻ đang độ xuân thì, ai cũng trẻ trung, xinh xắn, ai cũng khoác lên mình mấy bộ quần áo sậm màu nâu đất, nhưng không làm thuyên giảm đi vẻ đẹp của cái tuổi xuân đang độ căng tràn ấy. Mấy chị gái ai cũng làn da trắng nõn, tóc dài thướt tha, còn mấy anh thanh niên thì cao to, khỏe mạnh, mang vẻ rắn rỏi, sương gió đậm chất của đàn ông vùng quê này.


Mẹ vẫn ngồi đấy, bàn tay gầy gò mân mê gấu áo, đôi mắt đầy vết chân chim khắc khoải nhìn xa xăm. Cũng bằng mùa này năm ấy, chẳng nhớ năm nào, chỉ biết đúng mùa hoa cải trổ bông mẹ tôi về làm dâu nhà này. Ngày ấy mẹ còn trẻ lắm, mới mười bảy tuổi trăng tròn chứ bao nhiêu, thời ấy là thế, trai gái đương độ mười bốn, mười lăm là cha mẹ lo ngay ngáy, sắp sửa lo yên bề gia thất rồi. Duyên đến do cha mẹ quyết định chứ mấy ai được thoải mái yêu đương tự do như bây giờ. Mẹ nhớ rõ hôm ấy mới đi trỉa hết bao cải giống với chị dâu Cả về, gần đến nhà đã thấy người trên người dưới ra vào nườm nượp. Thấy mẹ đằng xa, bà ngoại gọi lớn “Cải ơi! Vào nhà tắm rửa thay đồ nhanh, nhà trai sang dạm hỏi”. Mẹ ngơ ngác chẳng hiểu gì, nhưng vẫn ngoan ngoãn vâng lời….
Ba hôm sau nhà trai sang xin dâu, một người đàn ông cao lớn, trong bộ quân phục màu xanh, dắt mẹ bước qua những luống cải xanh trước nhà vàng tươi. Nghe đâu ông là bộ đội, đi biền biệt, nhà có hai chị thì đi lấy chồng xa, còn mỗi mẹ già không ai chăm lo. Mẹ nhớ hôm đón dâu người ra người vào nhiều vô kể, trong đám đông có vài kẻ kháo nhau “Nhà này neo người, lấy vợ về để trông nhà”. Nghe thế bà ngoại xót xa lắm, nhưng chỗ đấy là thân quen với ông ngoại, ông đã hứa gả từ hồi tóc mẹ còn để chỏm, phận làm vợ như bà nào dám không nghe. Hai vợ chồng ở với nhau được hai ngày thì cha phải đi xa, bao việc đồng áng ở nhà một thân mẹ gánh vác, mẹ chồng thì già yếu rồi, giờ chỉ mong ngóng sao cho có đứa cháu để ẵm bồng, còn phụ được việc nào hay việc ấy. Nhớ những hôm ngày đầu mới về, một thân một mình lo việc ruộng nương giữa đồng quê sương sớm, tối về sau bữa cơm chiều lại vò võ một mình trong căn buồng tối với ánh đèn khuya leo lét, mấy con thạch sùng trên xà nhà cứ kêu “chậc chậc”, xa xa lại văng vẳng tiếng chó sủa đầu làng dội về. Bất giác, nhìn lên vách nhà, hai chữ Tân Hôn được cắt dán cẩn thận vẫn còn bóng bẩy đỏ tươi, bên kia mẹ chồng đã say giấc, mẹ thu mình lại ngồi khóc rưng rức. Nhớ nhà, nhà mẹ ngay cạnh làng bên, muốn sang chỉ cần qua một cái chợ phiên trải dài theo đường đê là tới, thế nhưng ngày ấy người ta quan niệm khác lắm, con gái là con người ta, đã gả bán cho người ta rồi thì đừng về nữa, có về thì cũng không được chứa chấp.



Chồng đi biền biệt, nhớ đêm trăng rằm trung thu đầu tiên khi vào nhà này, mẹ ngồi hong tóc khô ngoài cửa, nhìn thấy mấy anh chị thanh niên còn đơn thân tự do bay nhảy, đi qua đi lại trên con đường đê phía trước, họ tíu tít, hò hét, rủ nhau ra đình làng chơi, mẹ thầm khao khát những năm tháng còn ở với cha mẹ. Thuở ấy mẹ cũng có thầm thương trộm nhớ một anh chàng mà không dám nói, mẹ bảo người ấy hình dung cũng không đẹp trai là mấy, nhưng lại hát rất hay, tiếng hát làm mê mẩn biết bao cô gái tuổi mơ mộng như mẹ lúc ấy. Mẹ bảo, ngày xưa người ta gắt gao với đàn bà con gái lắm, một cô gái dù có yêu thích chàng trai nào đến mấy thì cũng chẳng mấy ai dám thổ lộ yêu đương, vì người xưa có câu rằng “Thà trâu đi tìm cọc,  chứ ai lại cọc đi tìm trâu”, vô duyên chết”! Vả lại, ngày xưa ông ngoại khó tính lắm, nhà có hai cô con gái út, chả muốn cho đi đâu, ngoài đi làm đồng xong thì phải về ngay, những ngày nào có hội hè đình đám nào muốn đi, thì phải đi cùng trong đám gái trong làng ông mới chịu. Đi về, nếu thấy có anh nào lẽo đẽo theo sau, ông đuổi ngay, lôi con về đánh cho một trận. Thời thế, thế thời là vậy, nên mẹ cũng đành chôn chặt cái tình yêu mới đơn phương vừa mới chớm nở ấy trong lòng. Bẵng đi một thời gian nghe tin người thương đi nhập ngũ, từ đấy mẹ biệt tin ông cho tới khi lấy chồng.
Xa nhà, xa chồng, mẹ buồn tủi lắm, mong sao có đứa con để an ủi vỗ về. Cha tôi, mãi hơn một năm ông mới được về nhà, nghe bảo vì trên đó có việc quan trọng, cử ông đi, rồi tiện thể cho phép ghé thăm nhà một vài bữa rồi lại đi chả biết khi nào về lại. Thời chiến tranh loạn lạc là thế, nhà ai có con trai cũng phải chịu thế cả. Ông về, cả nhà mẹ chồng, nàng dâu, ai cũng mừng mừng tủi tủi. Chẳng bao lâu sau, mẹ có mang, bà nội tôi mừng lắm, có đứa cháu đích tôn nối dõi tông đường là chuyện mong ngóng bấy lâu. Nhưng mẹ lại sanh hạ con gái, bà tôi không vui, nhưng vỗ về, “Chồng xa vắng, nay được đứa cháu gái cho vui vầy cũng được, lần sau sẽ có con trai!”. Ở quê là thế, nhà nào có con trai là làm trọn đạo với ông bà tổ tiên, nở mày nở mặt với dòng họ, xóm giềng, đi ăn cỗ thì được ngồi mâm trên, ai không có con trai thì phải ngồi mâm dưới. Mẹ kể, còn nhớ ngày ấy mẹ còn nhỏ, nhà mẹ là con ông trưởng, mỗi năm có dịp lễ tết gì đều tổ chức hội họp, ăn uống ở đấy. Có một lần, mâm cỗ nào sắp ra đều có người ngồi hết rồi, chú Út là chú ruột của mẹ từ đâu tới trễ, loạng choạng lên mâm đầu ngồi, bị mấy ông anh lớn trong họ đuổi xuống. Họ bảo mâm trên chỉ dành cho những người có con trai thôi, ai không có con trai thì ngồi mâm dưới. Đang bữa sum họp, bị đuổi xuống, bẽ mặt, chú Út tức lắm về bắt vợ sanh bằng được thằng đích tôn để ông xứng với anh em. Thím Út không sanh được nữa, ông đuổi bà ra khỏi nhà, ở cái lán gỗ bên mép vườn sắn, rồi cưới người khác về. Thế nên đàn bà con gái ai ai cũng sợ mình không sanh được con trai nối dõi cho chồng thì số phận chẳng khác nào thím Út của mẹ. Thấy đứa con bé bỏng mới sinh ra, mà đầu óc mẹ đầy những hoang mang phiền muộn.



Thời gian trôi nhanh, chị Cả cũng lớn dần, đã biết phụ mẹ viêc nhà và lo việc đồng áng. Bà nội vẫn mỏi mắt mong ngóng đứa cháu trai nối dõi. Thế nhưng cứ hi vọng rồi lại thất vọng, đứa thứ tư vẫn là con gái, bà nội tôi ngày càng sinh ra ngán ngẩm, đến khi cha giải ngũ về quê hẳn, bà tôi khó chịu ra mặt, có những hôm mẹ giần sàng gạo ngay giếng đấy, nghe tiếng bà nội tôi lanh lảnh “ Nhà bác Phúc bên cạnh nhà mình phúc đức thật, có được đứa con dâu mới về đã sinh được thằng đích tôn”, sau đó lại lặng lẽ bước vào nhà, tiến tới bục thờ thắp nén nhang thơm lẩm nhẩm khấn vái. Nghe thế, mẹ biết bà nội tôi đang trách cứ mẹ, cứ như mẹ mang tội với cả tổ tông. Còn về phần cha tôi, những lúc ấy chỉ lặng thinh chẳng nói gì. Phận làm vợ nhưng mẹ có được chuyện trò giãi bày với ông được bao nhiêu, mỗi lần ông về, cao lắm cũng độ được 3 ngày rồi lại đi, giờ giải ngũ, ông lại được cất nhắc lên trường phố học vì nghe đâu tỉnh đang thiếu cán bộ, cử ông đi, hai tuần mới về một lần. Đến lúc mẹ tôi mang thai tôi thì bà nội quả quyết, nếu lần này không sanh được đứa cháu cho bà nối dõi, thì bà nhất định cưới vợ hai cho ông. Nghe thế mẹ tủi thân lắm, ba đứa lớn thì ngày nào cũng phải ra đồng, đứa nhỏ thì đang ẵm bồng trong tay, nay lại bụng mang dạ chửa vẫn phải lo nghĩ.
 Ngày mẹ sanh tôi đươc đèo hẳn lên trạm xá xã chứ không phải kêu bà mụ đến nhà như mọi khi, bà tôi chẳng thèm lên nhìn mặt cháu, dặn chị Cả mang cà-mên cơm cho mẹ, thấy đứa trẻ đỏ hỏn trên tay mà không nhận được sự yêu thương của gia đình, mẹ chạnh lòng xót xa.
Từ hôm ấy cha tôi ở hẳn trên tỉnh không về nữa, ông bảo ở nhà có chị Cả với bà nội rồi, ông ở trên đó để lo việc hoc tập, mai này cho có tương lai sáng lạng. Một thời gian sau, mỗi lần lên bưu điện xã gửi đồ cho ông, mẹ lại nghe mấy người trong làng có con cũng học trên phố về bàn tán rằng phong phanh đâu đó ông có bà hai trên đấy rồi.  Bà hai nghe nói con nhà giàu có, được ăn học tử tế, xinh đẹp, đài các, trẻ hơn ông những mười tuổi, hai người lại học cùng lớp với nhau, “lửa gần rơm lâu ngày cũng bén mà”. Mẹ nghe chuyện mà tim giật thon thót, đầu óc lùng bùng cả lên, nhưng nào dám nói cho bà nội tôi hay. Rồi chuyện gì tới cũng tới. Hôm ấy, tôi nhớ nhà có vài người trong họ tới, ăn bận quần áo lịch sự, sạch sẽ. Lúc đó tôi đang chơi ù với mấy trẻ gần nhà, có đứa tới mách: “Ngồng ơi, về đi, bố mày cưới vợ hai đấy”, và sau đó là một loạt những trận cười chế nhạo tôi. Về đến nhà, tôi thấy một người đàn bà xinh đẹp khoác vai cha, bà nội tôi thì cười nói vui vẻ. Chạy xuống bếp thấy chị Cả, chị Hai, chị Ba đang lo nấu nướng, dọn đồ cùng mấy bác trong họ, mẹ tôi đi đâu cũng không biết, kêu mãi chẳng thấy mẹ thưa. Cho đến lúc rửa chén, chạy tới cầu ao, tôi thấy mẹ ngồi đó, khuôn mặt thấm đẫm nước mắt….


Từ khi có vợ bé, cha tôi ở trên phố hẳn, ông nói khi nào học xong ông đưa bà hai về tỉnh ở luôn. Ông giao nhà cửa, ruộng vườn, bà nội và mấy đứa con gái nhỏ cho mẹ tôi hết cả. Ông nói mẹ tôi hiểu cho ông, bà hai là hi vọng cho cả dòng tộc có đứa nỗi dõi, ông rất biết ơn mẹ những ngày thiếu vắng ông.
Từ độ biết má hai mang bầu, bà tôi mừng lắm, dặn ở nhà có quả trứng hay con gà đều đích thân sai chị Cả gửi lên xe đò. Còn sức, bà đích thân mang lên gửi. Má hai sanh em trai, dần dà mẹ và mấy chị em tôi trở thành cái bóng lúc nào không hay, chẳng ai thèm đếm xỉa, cha tôi cũng chẳng thèm đoái hoài nhà cửa, duy chỉ có ngày mất của bà nội, là ông về chịu tang. Hai tháng sau ông viết đơn xin thôi mẹ, ông bảo ở nhà mẹ con tự lo, ông sắp sửa vào Sài Gòn sinh sống rồi, khi nào con cái cưới chồng, dặn mẹ bảo ông một tiếng. Mẹ vò võ một mình từ đấy, thời gian cứ thế hờ hững trôi, cha không về nữa…
Năm tháng qua đi, con cái cũng lớn lên cũng rời xa mẹ, mái tóc xanh óng ả xưa kia của mẹ giờ đã lốm đốm bạc. Mẹ vẫn thế, vẫn hay cười, hay kể chuyện đời mẹ cho mấy chị em tôi nghe, nhưng sau nụ cười ấy, đôi mắt mẹ vẫn ánh lên một nỗi sầu bi. Nỗi sầu bi ấy đánh đổi bằng cả một đời người con gái. Năm nay, đúng mùa hoa cải nở, lại có đứa con gái nữa sắp sửa lấy chồng, nhìn cánh đồng cải sắp sửa vàng rực đến nao lòng ấy, lòng mẹ lại chộn rộn xốn xang...
Đỗ Đỗ 14.8.2016

Nhận xét